Chi Cục chăn nuôi Thú y và Thuỷ sản tỉnh Tuyên Quang cho biết, trong số hơn 1.700 con trâu, bò được phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo từ đầu năm đến nay đã có khoảng 1.000 con bê, nghé được sinh ra.
Đến nay toàn tỉnh đã có hơn 8.100 con trâu, bò được triển khai áp dụng phương pháp thụ tinh nhân tạo, nhờ đó dần khắc phục tình trạng thiếu trâu, bò đực giống và suy thoái đàn trâu, bò tại tỉnh Tuyên Quang do cận huyết.
Thụ tinh nhân tạo cũng góp phần quan trọng trong cải tạo tầm vóc thể trạng của đàn trâu, bò, nâng cao năng suất, mở ra hướng đi mới trong chăn nuôi đại gia súc trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
Với mục tiêu chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi, đánh giá khả năng thích nghi, sinh trưởng, phát triển của giống vịt mới làm cơ sở tham quan, học tập, áp dụng phát triển chăn nuôi vịt trên cạn, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư (KN – KN) tỉnh Quảng Bình đã thực hiện thành công mô hình trình diễn chăn nuôi giống vịt Đại Xuyên Star trên cạn (nuôi khô) với quy mô 1.400 con tại 4 hộ dân thuộc 2 xã Trường Thủy (huyện Lệ Thủy) và xã Võ Ninh (huyện Quảng Ninh).
Đại Xuyên Star (Ngôi sao Đại Xuyên) là giống vịt có nguồn gốc nhập nội từ giống vịt Grimaud của Pháp mà bà con nông dân vẫn hay quen gọi và vịt xiêm Pháp... Nhờ tỷ lệ thịt ức cao, chất lượng thơm ngon, khả năng sinh trưởng tốt, thích nghi rộng nhiều vùng miền… nên Đại Xuyên Star là giống vịt cao sản chuyên thịt rất phù hợp cho các mô hình chăn nuôi theo hướng công nghiệp quy mô lớn, chăn nuôi trang trại, gia trại.
Thạc sỹ Mai Ngọc Thuận, Trưởng Phòng Chuyển giao Kỹ thuật Chăn nuôi - Thủy sản (Trung tâm KN – KN tỉnh Quảng Bình) cho biết, để đảm bảo con giống đạt chất lượng, đúng yêu cầu sử dụng giống vịt Đại Xuyên Star 1 ngày tuổi khỏe mạnh, không bị dị tật, đảm bảo chất lượng, đúng phẩm cấp giống và được cơ quan liên quan kiểm tra chất lượng trước khi giao cho các hộ tham gia mô hình, Trung tâm đã hợp đồng với Công ty TNHH Đầu tư Phát triển nông nghiệp Hải Anh để cung ứng giống vịt cho mô hình.
Bên cạnh đó, Trung tâm đã ký hợp đồng với các công ty có uy tín để cung cấp thức ăn hỗn hợp đạt tiêu chuẩn chất lượng, có uy tín trên thị trường và phù hợp cho từng độ tuổi của vịt. Vacxin và thuốc thú y được mua tại các cơ sở có đủ điều kiện được phép kinh doanh, việc sử dụng đảm bảo đúng liều lượng, thời điểm và thời gian theo quy định.
Trước khi thực hiện mô hình, Trung tâm KN – KN tỉnh Quảng Bình tổ chức tập huấn cho người dân về kỹ thuật nuôi, cách cho ăn, chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh… Trong quá trình nuôi (bắt đầu từ cuối tháng 3/2022 ), Trung tâm cũng cử cán bộ kỹ thuật thường xuyên điện thoại trao đổi, lên kiểm tra trực tiếp để nắm bắt tình hình sinh trưởng của vịt, hướng dẫn các hộ tham gia mô hình trong việc cho ăn, tiêm phòng vacxin, điều chỉnh nhiệt độ chuồng nuôi trong các thời điểm giao mùa.
Bên cạnh đó, các hộ nuôi cũng luôn tuân thủ nghiêm ngặt lịch tiêm vacxin theo định kỳ cho đàn vịt, thường xuyên vệ sinh sạch sẽ chuồng trại, khu chăn nuôi, thực hiện vệ sinh phòng dịch, phun thuốc khử trùng tiêu độc định kỳ 2 tuần/lần. Chuồng nuôi đều có hố sát trùng trước cửa chuồng, thường xuyên có vôi bột và các chất sát trùng phù hợp. Máng ăn, máng uống và các dụng cụ vật tư khác đáp ứng tốt nhu cầu chăn nuôi và phù hợp với lứa tuổi phát triển của đàn vịt…
Cũng theo ông Mai Ngọc Thuận, Đại Xuyên Star là giống vịt mới, siêu thịt, chất lượng. Mô hình trình diễn giống vịt Đại Xuyên Star trên cạn triển khai bước đầu đã đạt kết quả cao, đảm bảo các chỉ tiêu yêu cầu của mô hình, qua đó, cho thấy giống vịt này thích nghi tốt, ít bệnh tật, sinh trưởng phát triển ổn định khi nuôi tại tỉnh Quảng Bình bằng phương thức chăn nuôi mới trên cạn. Đây là hướng đi mới nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến thời tiết, vùng nuôi, mùa vụ nuôi, giúp người dân phát triển chăn nuôi bền vững, bảo vệ môi trường.
Đến nay, sau 60 ngày tuổi, vịt đạt trọng lượng trung bình khoảng 3,2 - 3,4 kg/con, tỷ lệ sống trên 93%, tỷ lệ tiêu tốn thức ăn (FCR) dao động từ 2,4 - 2,6 kg/kg tăng trọng. Đặc biệt, giống vịt Đại Xuyên Star có tỉ lệ thịt xẻ rất cao, trên 72%. Điểm nhấn chính là phần thịt ức có khối lượng lớn và dày mà ít giống vịt trên thế giới hiện nay sánh được. Với giá bán khoảng 55.000 – 60.000 đ/kg, nuôi vịt Đại Xuyên Star mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Vài năm trở lại đây, do nhu cầu tiêu thụ ốc nhồi ngày càng lớn nên nhiều hộ dân ở các tỉnh Tây Nguyên, đặc biệt là Đắk Lắk đã quyết định phá ao để chuyển sang nuôi ốc.
Nuôi ốc có thực sự dễ?
“Cuối năm 2019, người ta kháo nhau ở dưới miền Tây họ chuyển sang nuôi ốc hết rồi, giá tới 100.000 đồng/kg lận. Rồi nguyên một huyện đua nhau phá ao nuôi ốc nhưng chẳng ai thành công. Phần lớn ốc ở đây dễ mắc bệnh, chậm lớn, kích thước nhỏ, thậm chí chết sạch” anh N.T.Kiên (huyện Krông Păk, Đắk Lắk) cho hay.
Rút kinh nghiệm từ những người đi trước, anh Nguyễn Văn Sỹ (huyện Buôn Hồ, Đắk Lắk) đã quyết tâm xuống tận Đồng Tháp, Cần Thơ để tìm hiểu và học hỏi các kỹ thuật nuôi ốc của người dân nơi đây. Bởi theo anh, phần lớn người dân địa phương thất bại là do chưa hiểu và làm đúng kỹ thuật nuôi, phải tới tận nơi, xem tận mắt, làm tận tay mới có thể áp dụng được.
Theo anh Sỹ, sở dĩ người dân địa phương thất bại là do còn áp dụng các kỹ thuật nuôi cũ như nuôi ao tự nhiên, thả bèo, sai quy trình khi sử dụng men vi sinh…
“Họ chỉ biết bỏ bèo để nuôi mà không biết rằng nuôi bèo nhiều thì buổi tối nó sẽ hút hết oxy trong nước khiến ốc bị thiếu oxy gây chết hàng loạt. Men vi sinh họ chỉ đánh một lần, không dám đánh định kỳ 10 ngày/lần, như vậy ốc sẽ dễ bị nhiễm bệnh đường ruột và thiếu canxi, khoáng gây mòn vỏ và chậm phát triển. Và khi trời mưa, họ không chịu tưới vôi để trung hòa axit trong nước mưa khiến cho ốc bị sốc nước chết.
Ngoài ra, nuôi ốc nhồi trong môi trường tự nhiên khiến người nuôi gặp nhiều khó khăn trong việc thay nước. Bởi hàng tháng phải thay nước đáy và bổ sung nước tầng mặt ít nhất một lần để đẩy sạch phần phân của ốc ra” anh Sỹ chia sẻ.
Mặc dù đã áp dụng đúng các kỹ thuật nuôi được học, thế nhưng khi triển khai mô hình thực tế tại địa phương, việc nuôi ốc vẫn gặp nhiều khó khăn. Trong hơn một tháng đầu tiên, số ốc mà anh Sỹ đầu tư đã chết khoảng 15 - 25%.
Anh Sỹ cho rằng, nuôi ốc không hề dễ như người ta đồn thổi, không ít trường hợp thổi vống lên về hiệu quả và quảng cáo ốc rất dễ nuôi để mục đích bán được trứng hoặc ốc giống thu lời. Nhiều người đã tin nuôi ốc dễ, lại cho lợi nhuận cao mà dễ dàng bỏ ra số tiền lớn để đầu tư mua trứng, ốc giống về nuôi, để rồi phải tốn công, tốn sức, tốn tiền bạc.
Không giống như ngoài Bắc, trong này chỉ có 2 mùa là mùa mưa và mùa khô. Khi mùa mưa đến, bất kể trời mưa lúc nào tôi đều phải tưới vôi. Thay vì bón bằng tay rất vất vả lại chậm chạp, tôi lắp đặt hệ thống béc chuyên tưới. Ngoài ra, tôi còn lắp thêm hệ thống sục khí venturi để cấp oxy giống như trong nuôi tôm, cá.
"Đăk Lăk là vùng đất phèn chua, sắt nhiều, rất có hại cho ốc. Khi mới nuôi, phải cải tạo đáy ao kỹ và phải khử kim loại nặng trong nước mới nuôi được. Xử lý đáy ao bằng vôi rồi phơi khô vài ngày sau khi cho nước vào, nên giảm phèn và kim loại nặng trong nước”, anh Sỹ chia sẻ.
Nuôi ốc nhồi liệu có dễ "hốt bạc"?
Theo anh Sỹ, nếu ốc nhồi được nuôi đúng kỹ thuật thì tầm 3 - 4 tháng là được thu hoạch, còn nếu thiếu chất dinh dưỡng hay không đủ oxy, ốc sẽ rất lâu lớn, thậm chí 6 - 7 tháng vẫn chưa được thu. Giá ốc nhồi ở miền Nam và miền Trung không được cao như miền Bắc, hiện tại chỉ khoảng 30.000 - 40.000 đồng/kg. Nuôi ít thì không có lời, mà nuôi mật độ lớn thì rủi ro cao, tỉ lệ số người thành công rất ít.
“Bỏ qua chi phí cải tạo ao nuôi, chi phí lắp đặt hệ thống béc chuyên tưới và sụt khí venture hết khoảng 10 triệu đồng, chi phí đầu tư mua 30 vạn con ốc giống gần 75 triệu đồng. Chi phí tiền men vi sinh và thuốc kháng sinh khoảng từ 5 - 7 triệu đồng/vụ.
Ngoài ra, do Đăk Lăk chủ yếu là vôi đá, không có loại vôi dolomit và super canxi dành cho thủy sản như những vùng miền Tây nên chi phí mua vôi dùng cho ốc tại đây rất khan hiếm và đắt đỏ. Với diện tích 600m2, một tháng vào mùa mưa tôi phải tốn khoảng 10 bao vôi loại 25kg, chi phí 80.000 đồng/bao, tính ra giá đắt gấp 10 lần mua sỉ ở miền Tây. 30 vạn ốc giống nếu nuôi đúng kỹ thuật, sau 4 tháng sẽ cho ra năng suất đạt từ 4 - 5 tấn ốc” anh Sỹ cho biết.
Như vậy, nếu như bỏ qua các chi phí cải tạo ao nuôi, hệ thống thiết bị thì chi phí đầu tư cho một vụ ốc sẽ hết khoảng 86 triệu đồng. Tính theo giá hiện tại, sau 4 tháng sẽ bán được khoảng 150 - 200 triệu đồng, thu lời từ 64 - 114 triệu đồng. Có thể thấy, nuôi ốc nhồi không hề dễ như nhiều người nghĩ, nhưng cũng không phải là quá khó để kiếm lời. Hãy trang bị cho bản thân thật đầy đủ những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ thuật trước khi tham gia đầu tư để thành công.
Hệ thống cán bộ thú y cấp xã là một lực lượng cực kỳ quan trọng, không thể thiếu trong việc phòng, chống dịch bệnh động vật. Chính đội ngũ cán bộ thú y xã là những người trực tiếp làm nhiệm vụ giám sát, xử lý các ổ dịch, triển khai công tác phòng, chống dịch bệnh tại cơ sở, hướng dẫn vệ sinh chuồng trại, môi trường chăn nuôi, tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm hàng vụ, hàng năm. Mỗi lần dịch bệnh gia súc, gia cầm xảy ra, đội ngũ cán bộ thú y vất vả chẳng kém gì đội ngũ cán bộ y tế xã, phường khi có dịch bệnh xảy ra ở con người.
Sau những bất cập do không còn cán bộ thú y cấp xã, ngày 9/12/2021, HĐND tỉnh Nghệ An đã ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 22/2019/NQ-HĐND. Trong đó quyết định chức danh Thú y vào nhóm chức danh bán chuyên trách cấp xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên, đến nay toàn tỉnh Nghệ An mới chỉ tuyển dụng lại được 285 cán bộ thú y xã, trong khi nhu cầu toàn tỉnh là 460 người. Như vậy, toàn tỉnh vẫn còn thiếu 175 cán bộ thú y cấp xã.
Ông Nguyễn Trọng Hưng, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Yên Thành cho biết, là huyện có tổng đàn gia súc, gia cầm vào loại lớn nhất tỉnh nhưng đến nay toàn huyện mới tuyển dụng lại được 18/39 cán bộ thú y xã, còn lại 21 xã vẫn trống cán bộ thú y.
Theo ông Hương, nguyên nhân khó khăn trong việc tuyển dụng cán bộ thú y xã là theo quy định, người được tuyển dụng phải có bằng tốt nghiệp cấp 3, trung cấp chuyên ngành thú y trở lên, trong khi những người vừa trẻ, vừa có đủ bằng cấp lại không muốn làm. Trong khi đó, có rất nhiều người đã có thâm niên và kinh nghiệm làm việc trong ngành thú y lại không thể tuyển dụng lại được do không đáp ứng được yêu cầu về bằng cấp. Việc thiếu cán bộ thú y cấp xã đã và đang gây ra nhiều khó khăn cho địa phương trong công tác phòng, chống dịch bệnh hiện nay.
Đối với các huyện miền núi, việc bố trí lại chức danh thú y xã lại càng khó khăn hơn nhiều. Sau nhiều lần, nhiều tháng ra thông báo tuyển dụng, đến nay xã Chi Khê, huyện Con Cuông chỉ nhận được một bộ hồ sơ ứng tuyển. Nhưng, rất đáng tiếc người nộp hồ sơ xin được ứng tuyển vào chức danh thú y xã lại không đáp ứng tiêu chí về trình độ, bằng cấp.
Có huyện mới tuyển được 1 người
Bà Nguyễn Thị Thắng, Phó Chủ tịch UBND xã Chi Khê cho biết, do chưa tuyển được người vào vị trí chức danh thú y xã, nên thời gian qua, việc phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm trong xã gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt trong các đợt tiêm phòng theo chủ trương của tỉnh và huyện, UBND xã phải thuê người làm, cho dù nguồn kinh phí rất khó khăn hạn hẹp, nhưng xã vẫn phải thuê, tuy nhiên do việc phải thuê dịch vụ nên công tác tiêm phòng đạt tỉ lệ thấp, và xã cũng đành phải chấp nhận.
Theo bà Lô Thị Tâm, cán bộ Phòng NN-PTNT huyện Con Cuông: Đến thời điểm này, toàn huyện chỉ mới có 5/13 xã tuyển dụng được cán bộ thú y. Người vừa có tâm, vừa muốn làm, vừa có kinh nghiệm trong nghề không được tuyển dụng lại do không đáp ứng đủ tiêu chuẩn bằng cấp. Trong khi đó, những người trẻ khỏe, có đủ bằng cấp lại không mặn mà với công việc thú y cấp xã, mà thích đi làm ăn xa hoặc công việc khác có thu nhập cao hơn, kể cả đi làm công nhân ở các khu công nghiệp trong và ngoài tỉnh.
Đến nay, toàn tỉnh Nghệ An mới chỉ có 3 địa phương là huyện Quỳ Châu, huyện Nghĩa Đàn và Thị xã Cửa Lò là đã tuyển dụng đủ chỉ tiêu cán bộ thú y xã, còn lại 18 huyện/thành, thị chưa tuyển đủ người vào vị trí này. Trong đó, một số huyện có tỉ lệ tuyển dụng đạt rất thấp như: Kỳ Sơn mới tuyển dụng được 1/21 xã, Nghi Lộc 7/29 xã, Thanh Chương 20/38 xã, Anh Sơn 3/21 xã…
Ông Đặng Văn Minh, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Nghệ An cho biết, thời gian qua, UBND tỉnh đã có nhiều văn bản chỉ đạo các địa phương nhanh chóng khôi phục hệ thống thú y cấp xã, phường và thị trấn. Riêng Sở NN-PTNT đã trực tiếp xuống từng huyện, thành, thị để đốc thúc việc tuyển dụng, tuy nhiên tình hình tuyển dụng vẫn gặp không ít khó khăn, trong đó khó khăn nhất là quy định về tiêu chí tuyển dụng.
Cụ thể đối với vùng đồng bằng, người được tuyển dụng phải có bằng trung cấp chuyên ngành thú y trở lên, vùng miền núi phải có bằng sơ cấp thú y trở lên. Có thể nói tiêu chí quy định không sai, nhưng vì cơ chế chính sách, chế độ phụ cấp… chưa đáp ứng được tương xứng cho người làm công tác thú y ở cơ sở, nên một số lượng khá lớn người có đầy đủ bằng cấp và sức khỏe tốt không mặn mà. Đa số người đủ tiêu chuẩn đều muốn sử dụng chuyên môn của mình sang làm dịch vụ, như mở cửa hàng kinh doanh thuốc thú y, thăm khám chữa bệnh cho gia súc, gia cầm khi có người mời gọi…
Tình trạng kháng thuốc kháng sinh đang trở thành vấn đề quan ngại hàng đầu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trong đó, Việt Nam được xếp vào một trong những nước có tỷ kệ kháng kháng sinh cao nhất trên thế giới.
Thông tin công bố tại hội thảo “Thực trạng kháng kháng sinh và giải pháp sử dụng chế phẩm thay thế trong chăn nuôi” do do Công ty CP Vietko Bio (Hàn Quốc) đã kết hợp với Trường ĐH Nông lâm Thái Nguyên tổ chức tại TP. Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, cho biết, theo thống kê, có đến 75% kháng sinh trong chăn nuôi được nhập khẩu từ Trung Quốc, tuy nhiên, số thuốc này không được quản lý chặt chẽ trong việc tiêu thụ.
Ở Việt Nam, vấn đề sử dụng quá liều hoặc lạm dụng thuốc kháng sinh ở các trang trại gia súc và gia cầm đang ở mức báo động, do việc giám sát sử dụng thuốc còn hạn chế, đồng thời, nhu cầu sử dụng ngày càng tăng.
Một kết quả khảo sát của ngành y tế về việc bán thuốc kháng sinh ở các hiệu thuốc vùng nông thôn và thành thị các tỉnh phía Bắc cho thấy, nhận thức về kháng kháng sinh của người bán thuốc và người dân còn thấp. Người dân mua kháng sinh tại các nhà thuốc dễ như mua rau ngoài chợ.
Sử dụng tùy tiện thuốc kháng sinh không đúng qui định, chỉ định cho vật nuôi, gây tồn dư thuốc trong cơ thể vật nuôi, tăng nguy cơ kháng thuốc cho con người khi ăn thức ăn có nguồn gốc từ các vật nuôi này.
Không ít hộ chăn nuôi, trang trại, không đợi vật nuôi đào thải hết kháng sinh đã xuất bán tạo ra những tồn dư kháng sinh trong thực phẩm rất lớn. Do đó, việc trang bị kiến thức về kháng kháng sinh cho nông dân và vô cùng quan trọng để ngành chăn nuôi có thể phát triển một cách bền vững và cung cấp ra thị trường các sản phẩm an toàn.
Theo PGS. TS Nguyễn Quang Tính, giảng viên cao cấp trường ĐH Nông lâm Thái Nguyên, trước thực trạng kháng kháng sinh đang có chiều hướng gia tăng, việc chủ động sử dụng các chế phẩm, phụ gia trong thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ tự nhiên sẽ giúp đảm bảo an toàn cho vật nuôi cũng như người tiêu dùng.
Việt Nam nhập khẩu tới 1 tỷ USD phụ gia ngành chăn nuôi mỗi năm
Số liệu thống kê cho thấy, năm 2021, Việt Nam nhập khẩu 700.000 tấn phụ gia thức ăn chăn nuôi, thức ăn bổ sung, tương đương 1 tỷ USD. Mặc dù là nước nông nghiệp nhưng nước ta hiện chưa chủ động sản xuất phụ gia thức ăn chăn nuôi.
Hiện một số doanh nghiệp nước ngoài cũng đang xúc tiến nghiên cứu, hợp tác đầu tư nhằm sản xuất phụ gia thức ăn chăn nuôi ngay tại nước ta để giảm dần sự phụ thuộc vào nhập khẩu, hạ giá thành sản phẩm giúp người nuôi tiết kiệm chi phí sản xuất.
Theo đại diện Khoa Chăn nuôi và Thú y, Trường ĐH Nông lâm Thái Nguyên về giải pháp sử dụng chế phẩm thay thế kháng sinh trong chăn nuôi, nhằm khắc phục tình trạng kháng kháng sinh hiện nay.
Theo đó, đơn vị này công bố công trình thí nghiệm xây dựng quy trình sử dụng và khuyến cáo sử dụng đối với sản phẩm DMFARM và DCS682 của Công ty Cổ phần Vietko Bio, giúp vật nuôi tăng kháng thể, từ đó giảm thiểu, thay thế dần kháng sinh trong chăn nuôi. Việc thí nghiệm này đã được triển khai thực tế trên đàn vật nuôi của Công ty CP khai thác khoáng sản Thiên Thuận Tường (TP. Cẩm Phả, Quảng Ninh).
Đại diện Công ty CP khai thác khoáng sản Thiên Thuận Tường chia sẻ, khi áp dụng quy trình sử dụng sản phẩm DMFARM và DCS682 của Công ty CP Vietko Bio theo quy trình và khuyến cáo của Trường ĐH Nông lâm Thái Nguyên giúp vật nuôi kích thích thèm ăn, hỗ trợ chuyển hóa và hấp thu dinh dưỡng, ức chế vi khuẩn có hại, từ đó tăng năng suất, chất lượng và giảm chi phí chăn nuôi.
Ông Jo Wan Su, Tổng Giám Đốc Công ty cổ Phần Vietko Bio cho biết, doanh nghiệp đã bắt đầu việc đầu tư với mong muốn mang những sản phẩm phụ gia thức ăn chăn nuôi tốt nhất được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến ở Hàn Quốc đến Việt Nam. Thời gian tới, công ty sẽ tiến hành chuyển giao kỹ thuật để có thể trực tiếp sản xuất ra sản phẩm ngay tại Việt Nam.
“Hiện tại ở thị trường Việt Nam cũng có rất nhiều các sản phẩm phụ gia thức ăn chăn nuôi, nhưng công nghệ sản xuất vẫn chưa được tốt như những nước tiên tiến khác. Với suy nghĩ phải đóng góp điều gì đó cho các nhà nông Việt, tôi sẽ mang những sản phẩm vượt trội từ Hàn Quốc để cung cấp cho nhà nông Việt”, ông Jo Wan Su nhấn mạnh.
PGS. TS Nguyễn Quang Tính, Đại học Nông lâm Thái Nguyên cho rằng, thời gian tới, các sản phẩm phụ gia thức ăn chăn nuôi sẽ dần thay thế các loại kháng sinh, giúp đàn vật nuôi phát triển khỏe mạnh, giảm tồn dư kháng sinh, nâng cao chất lượng sản phẩm và đảm bảo an toàn đối với người tiêu dùng.
Kết quả thử nghiệm tại một số hộ chăn nuôi tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Hà Nội cho thấy, đàn gà sử dụng DCS 682 đi phân khuôn, giảm tiêu chảy, giảm mùi hôi chuồng trại, lông bóng mượt, ăn uống tốt. Đối với sản phẩm DMFarm trên đàn lợn cho thấy, sau 124 ngày nuôi, tăng trọng tích lũy ở đàn lợn sử dụng DMFarm cao hơn từ 5-8kg/con, giúp đàn lợn giảm tổng số vi khuẩn E.coli trong đường tiêu hóa 93,7%, giảm được 100% vi khuẩn Salmonella có hại, giúp hệ tiêu hóa ổn định, đàn lợn phát triển tốt, cho sản phẩm thịt tươi ngon, đảm bảo an toàn thực phẩm.
Vietko Bio sẽ chuyển giao quy trình sản xuất phụ gia thức ăn chăn nuôi về Việt Nam
Công ty Cổ phần Vietko Bio tại TP. Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh là một trong những đơn vị tiên phong trong việc nhập khẩu phụ gian thức ăn chăn nuôi về Việt Nam.
Đây là công ty có vốn đầu tư Hàn Quốc, kết hợp với các đối tác hàng đầu về lĩnh vực sản xuất các sản phẩm dành cho chăn nuôi tại Hàn Quốc để ứng dụng công nghệ và khoa học kỹ thuật mang lại sản phẩm chất lượng nhất, hiệu quả nhất, an toàn nhất đến với người chăn nuôi Việt Nam.
Hiện có 2 sản phẩm đang được công ty phân phối tại Việt Nam là DMFarm và DCS 682. Các sản phẩm này 100% được sản xuất tại Hàn Quốc.
Sản phẩm DCS 682 khi thử nghiệm trên đàn gà làm tăng sự biểu hiện của các gen đóng vai trò bảo vệ hệ thần kinh và thúc đẩy sự tăng sinh và phân hóa của tế bào, đẩy nhanh sự sinh sản của tế bào mới giúp tăng trưởng nhanh và nâng cao hiệu quả thức ăn chăn nuôi.
Đối với sản phẩm DMFarm, khi bổ sung vào khẩu phần ăn hàng ngày cho lợn có tác dụng cải thiện khả năng tiêu hóa thức ăn và hấp thụ chất dinh dưỡng, giúp lợn tăng trưởng nhanh hơn, giảm tỷ lệ tiêu chảy trên lợn, mang lại lợi nhuận kinh tế cao hơn.
Ông Jo Wan Su, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần VietKio Bio bày tỏ mong muốn trở thành nhà cung cấp các sản phẩm chất lượng cao, an toàn sinh học, áp dụng khoa học công nghệ hiệu quả hàng đầu cho ngành chăn nuôi tại Việt Nam.
Thời gian tới, phía Hàn Quốc sẽ tiến hành chuyển giao kỹ thuật sản xuất sản phẩm DMFarm cho phía Việt Nam, từ đó giảm giá thành sản phẩm, giúp nông dân tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng khả năng cạnh tranh cho chăn nuôi ở Việt Nam.
Sáng 28/6, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp cùng Sở NN-PTNT Hà Nội tổ chức Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp chủ đề “Giải pháp phát triển chăn nuôi bò thịt theo chuỗi giá trị sản phẩm”.
Bà Hạ Thúy Hạnh, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết: Diễn đàn là dịp để các cơ quan quản lý nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp, người chăn nuôi đánh giá thực trạng, nêu lên những khó khăn, vướng mắc, chia sẻ kinh nghiệm và đưa ra các giải pháp phát triển chăn nuôi bò thịt theo chuỗi giá trị sản phẩm. Từ đó, giúp người chăn nuôi củng cố kiến thức, kỹ năng trong việc tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng, gia tăng thu nhập, khả năng cạnh tranh, bảo vệ môi trường sinh thái.
Theo bà Hạnh, Việt Nam là quốc gia có thế mạnh về phát triển chăn nuôi. Tốc độ tăng trưởng lĩnh vực chăn nuôi duy trì bình quân ở mức 5-6%/năm, đáp ứng nhu cầu thực phẩm trong nước và xuất khẩu. Đàn bò cả nước tính đến hết quý I/2022 ước tăng 1,1%, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 128.000 tấn (tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2021).
Sản phẩm thịt bò của Việt Nam có rất nhiều cơ hội, lợi thế để phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới như: Thị trường tiêu thụ lớn do dân số đông cùng với mức thu nhập ngày càng tăng trong khi lượng cung trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu, hiện tại sản phẩm thịt bò phải nhập khẩu từ nước ngoài lên đến 60%.
Hiện nhiều doanh nghiệp lớn kinh doanh theo chuỗi: Nhập khẩu nuôi vỗ béo - giết mổ - chế biến - phân phối. Trong tương lai, đây có thể coi là các đầu tàu thúc đẩy phát triển chăn nuôi bò thịt theo chuỗi. Bên cạnh đó, nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ từ Chính phủ và các nước đối tác như Úc... trong chiến lược phát triển sản xuất và mở rộng thị trường thịt bò.
Ngoài ra, Việt Nam đặt mục tiêu đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ, đặc biệt là bò thịt để đến năm 2030 đạt trên 10% thịt bò trong tổng sản lượng thịt các loại (hiện tại là 7,4%)...
Tuy nhiên, theo bà Hạnh, bên cạnh những thuận lợi, việc phát triển chăn nuôi bò thịt theo chuỗi giá trị sản phẩm ở Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn, thách thức:
Thị trường nhập khẩu rộng mở, nguy cơ cạnh tranh với hàng nhập khẩu có chi phí sản xuất thấp hơn. Bên cạnh đó, Việt Nam đã cho phép nhập khẩu bò sống từ Úc, Brazil, Thái Lan về giết mổ trong nước.
Đồng thời, ký Hiệp định Thương mại tự do với các nước EU, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP (Úc, Canada, Mexico, New Zealand) nên mức thuế suất nhập khẩu mặt hàng này sẽ giảm về 0%.
Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho rằng: Việc xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi an toàn là yêu cầu bắt buộc và được xem là chìa khóa giúp người chăn nuôi gia tăng lợi nhuận, phát triển bền vững.
Trên cơ sở đó, tại diễn đàn các đại biểu đã thảo luận sôi nổi những vấn đề liên quan tới kỹ thuật chăm sóc; tự sản xuất, phối trộn thức ăn để giảm chi phí đầu vào; chính sách, giải pháp phát triển chăn nuôi bò thịt theo chuỗi giá trị sản phẩm nhằm nâng cao giá trị sản xuất, hiệu quả kinh tế, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường, tăng khả năng cạnh tranh, bảo vệ môi trường sinh thái.
Liên kết là nền tảng tăng sức cạnh tranh cho chăn nuôi trong nước
Trong khuôn khổ Diễn đàn, các đại biểu đã tới tham quan mô hình chăn nuôi bò thịt gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm của anh Vỹ Kim Tuyền, thôn 6, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì (Hà Nội).
Anh Tuyền chia sẻ: Từ năm 2014, gia đình bắt đầu liên kết với Công ty Cổ phần Giống gia súc Hà Nội phát triển chăn nuôi bò 3B lấy thịt. Từ 5 con ban đầu, đến hiện tại tổng đàn bò 3B của gia đình anh đã tăng lên 170 con.
Theo anh Tuyền, lợi ích lớn nhất khi phát triển nuôi bò thịt theo chuỗi liên kết giá trị sản phẩm là người chăn nuôi an tâm, tự tin, lợi nhuận thu được cao hơn so với cách nuôi tự phát. Bởi lẽ, khi tham gia liên kết, anh được công ty cung cấp con giống chất lượng, hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc. Nhờ đó, đàn bò sinh trưởng và phát triển tốt, sức đề kháng cao, trọng lượng và chất lượng thịt đều được nâng cao hơn so với cách nuôi truyền thống.
Bên cạnh đó, công ty còn hướng dẫn kỹ thuật phối trộn, ủ thức ăn giàu dinh dưỡng; sử dụng chế phẩm sinh học xử lý phân, nước thải làm phân bón trồng cỏ, ngô... Những cây trồng này, khi thu hoạch lại được sử dụng làm thức ăn cho bò. Với cách làm này, vừa giúp giảm mùi hôi, thối, bảo vệ môi trường vừa tiết kiệm được nhiều chi phí đầu vào, nhất là trong bối cảnh giá thức ăn chăn nuôi đang tăng cao như hiện nay.
Ngoài ra, khi tham gia liên kết gia đình anh được doanh nghiệp bao tiêu, kết nối với các cơ sở thu mua, giết mổ, tiêu thụ bò đến tuổi xuất bán... Do đó, đầu ra luôn được giữ ổn định, giá bán ở mức cao 90.000-95.000 đồng/kg (cao hơn so với giá thị trường 85.000-86.000 đồng/kg), sau khi trừ đi các chi phí anh thu về 8-12 triệu đồng/con.
Bà Hạ Thúy Hạnh, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đánh giá: Khi phát triển chăn nuôi theo chuỗi giá trị, người dân sẽ biết cách chủ động được nguồn con giống chất lượng, nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng, được trang bị kiến thức, kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học, sử dụng vacxin theo đúng chuẩn.
Bên cạnh đó, việc có đầu ra, giá bán ổn định ở mức cao là điều kiện để người chăn nuôi phát triển mạnh mẽ, nâng cao thu nhập, từng bước cải thiện cuộc sống, tiến tới làm giàu bằng chính ngành nghề của mình.
Trên cơ sở đó, bà Hạnh chia sẻ: Trong thời gian tới, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia sẽ tiếp tục triển khai các hoạt động góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh của ngành chăn nuôi.
Đến năm 2030, sản xuất chăn nuôi nước ta thuộc nhóm các quốc gia tiên tiến trong khu vực. Sản phẩm chăn nuôi hàng hóa được sản xuất chủ yếu trong các trang trại, hộ chăn nuôi chuyên nghiệp bảo đảm an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, thân thiện với môi trường, đối xử nhân đạo với vật nuôi, đáp ứng yêu cầu chất lượng, an toàn thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và tăng cường xuất khẩu.
Tiếp tục xây dựng các mô hình, đào tạo, tập huấn, thông tin tuyên truyền về chăn nuôi VietGAHP, an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, an toàn sinh học, theo hướng hữu cơ, liên kết theo chuỗi, kiểm soát chất lượng, truy xuất nguồn gốc từ nguyên liệu đầu (giống, thức ăn, vật tư chăn nuôi, quy trình chăm sóc nuôi dưỡng) đến khâu vận chuyển, giết mổ, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Ưu tiên xây dựng các mô hình chăn nuôi trang trại, đồng bộ, khép kín từ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về con giống, thức ăn, quy trình chăm sóc, giết mổ, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi, xử lý môi trường.
Xây dựng các mô hình nông nghiệp tuần hoàn, sinh thái, gắn trồng trọt với chăn nuôi, sử dụng sản phẩm trồng trọt làm thức ăn chăn nuôi và sử dụng hiệu quả chất thải chăn nuôi làm phân hữu cơ, bón cho cây trồng.
Quan tâm, phát triển các mô hình chăn nuôi phù hợp điều kiện vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, tạo sinh kế cho đồng bào khó khăn, góp phần ổn định đời sống xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng.
Giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 56,44% toàn ngành
Toàn tỉnh Quảng Ninh hiện có 7 doanh nghiệp chăn nuôi lớn như Công ty TNHH Phú Lâm, quy mô từ 10.000 - 12.000 con bò; Công ty CP Khai thác khoáng sản Thiên Thuận Tường, quy mô 40.000 - 50.000 con lợn, sản lượng 700 tấn/tháng; Công ty CP Phát triển chăn nuôi và Nông lâm ngư nghiệp Phúc Long, quy mô 5.000 con gà Tiên Yên bố mẹ.
Cùng với đó là 24 hợp tác xã và 240 trang trại chăn nuôi được cấp chứng nhận kinh tế trang trại, 28 cơ sở được cấp chứng nhận VietGAP, 15 cơ sở được cấp chứng nhận an toàn dịch bệnh.
Tỉnh Quảng Ninh đang phát triển các vùng chăn nuôi tập trung, như vùng chăn nuôi lợn tại TP Móng Cái với diện tích 32ha; vùng chăn nuôi gà Tiên Yên với 850.000 con; các vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung với 1.341ha.
Nhờ tập trung phát triển chăn nuôi theo hướng bền vững, năm 2021 giá trị sản xuất chăn nuôi của tỉnh tăng 7,6%, chiếm 56,44% giá trị sản xuất ngành Nông nghiệp. Đến nay, toàn tỉnh có đàn trâu hơn 27.600 con, đàn bò trên 34.000 con, đàn lợn gần 263.000 con, đàn gia cầm hơn 4 triệu con.
Tổng sản lượng thịt các loại xuất chuồng năm 2021 được 97.344 tấn, 3 tháng đầu năm 2022 đạt 27.451 tấn. Sản lượng thịt gia súc, gia cầm chăn nuôi trên địa bàn tỉnh hiện đáp ứng 70% nhu cầu tiêu dùng nội tỉnh.
Các địa phương trong tỉnh đang rà soát, bố trí quỹ đất phục vụ việc di dời cơ sở chăn nuôi ra khỏi khu vực không được phép chăn nuôi; tiếp tục kêu gọi doanh nghiệp đầu tư, phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Ngoài ra, khuyến khích các cơ sở sản xuất giống gia súc, gia cầm nhằm đảm bảo cung ứng 80% nhu cầu giống trong chăn nuôi của tỉnh thời gian tới.
An toàn sinh học là ưu tiên hàng đầu
Từ việc áp dụng các quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, hệ thống trang trại lợn của Công ty CP Khai thác khoáng sản Thiên Thuận Tường (Quảng Ninh) đã bảo vệ thành công đàn lợn trước dịch bệnh, giúp công ty ổn định phát triển chăn nuôi, góp phần tăng nguồn cung thực phẩm gia súc, gia cầm.
Theo ông Trần Hòa, Chủ tịch HĐQT, Giám đốc công ty Thiên Thuận Tường, ngay sau khi nhận được tin bệnh dịch tả lợn châu Phi bùng phát tại Trung Quốc, và sau đó xuất hiện ở một số tỉnh thành của Việt Nam, công ty đã tập trung đầu tư nghiên cứu tìm hiểu các giải pháp để phòng chống dịch.
Cụ thể, công ty đã cấm trại tuyệt đối trong thời gian có bệnh dịch tả châu Phi. Cấm người không có nhiệm vụ và phương tiện, động vật vào trại, kể cả xe chở lợn và phương tiện của khách hàng đến mua lợn. Công ty sẽ bố trí phương tiện vận chuyển lợn ra ngoài cho khách hàng.
Với cán bộ công nhân viên, sinh viên thực tập, người lao động thực hiện đi làm đúng giờ theo quy định, sát trùng (xông hóc mon, chiếu đèn UV…) thay 100% quần áo bảo hộ lao động trước khi vào vị trí làm việc.
Việc vệ sinh môi trường khu vực chăn nuôi, nhà ở sinh hoạt, rắc vôi toàn bộ môi trường xung quanh hàng tuần, phun thuốc khử trùng chuồng trại hàng ngày, tổ chức diệt chuột, côn trùng, ruồi muỗi, được công ty thực hiện ít nhất 1 lần/tuần.
Bên cạnh đó, công ty tăng cường quản lý theo dõi diễn biến tình hình đàn lợn, nâng cao kháng thể tổng đàn như bổ sung các loại vitamin, các chất dinh dưỡng…
Trong giai đoạn phòng chống dịch, Ban Giám đốc tổ chức trực 24/24h tại nhà điều hành sản xuất. Đặc biệt, để tránh một kịch bản xấu nhất, Thiên Thuận Tường đã lựa chọn những con lợn giống quý đưa đến hơn 60 địa điểm là các đảo và trong rừng sâu để tránh dịch có thể xâm nhập.
Theo ông Hòa, nhờ thực hiện nghiêm các quy trình, quy định trong chăn nuôi theo hướng công nghệ cao và áp dụng triệt để các giải pháp phòng, tránh dịch bệnh cho đàn lợn nuôi, nên nguồn lợn thương phẩm và lợn giống của Thiên Thuận Tường cung ứng ra thị trường luôn đảm bảo an toàn, uy tín.
Hiện công ty là đơn vị giữ giống gốc lợn Móng Cái và nhiều giống lợn quý khác cho Bộ NN-PTNT, cũng là đơn vị đối tác giữ giống lợn cho Quảng Ninh.
Là doanh nghiệp tiên phong về phát triển chuỗi OCOP ở Quảng Ninh, nhiều năm qua, Thiên Thuận Tường đã tập trung nguồn lực cho ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Công ty đã đầu tư nhập khẩu giống lợn thuần, lai tạo giống nái sinh sản, giống đực thương phẩm cho nguồn thực phẩm chất lượng thơm ngon, được chăn nuôi theo dây chuyền tự động công nghệ châu Âu (nhập khẩu từ Đan Mạch) trên diện tích 500 ha (tại địa bàn TP Cẩm Phả, huyện Ba Chẽ và huyện Vân Đồn).
Đến nay, tổng đàn lợn của Thiên Thuận Tường đạt khoảng 50.000 con, số gia cầm đạt trên 80.000 con. Công ty đã đầu tư từ sản xuất thức ăn đến chăn nuôi, phân bón hữu cơ, trồng rau an toàn, trồng vùng nguyên liệu để xuất thức ăn chăn nuôi.
Đặc biệt, Thiên Thuận Tường đã và đang đầu tư vào lĩnh vực sản xuất chăn nuôi, trồng trọt theo chuỗi, từ nuôi trồng chế biến cho đến tiêu thụ. Gần đây, công ty cũng mở cửa hàng tiện ích, nhằm cung cấp thực phẩm là các sản phẩm OCOP đến người tiêu dùng...
Chương trình OCOP xuất phát ở Quảng Ninh năm 2013, từ mô hình của Thiên Thuận Tường, tỉnh sẽ tiếp tục nhân rộng, xây dựng chuỗi sản phẩm OCOP. Với thương hiệu "Chợ Việt OCOP" của Thiên Thuận Tường, cùng với các doanh nghiệp khác sẽ hình thành hệ thống bán lẻ, tiêu thụ sản phẩm cho người dân ở Quảng Ninh và nhiều địa phương khác như Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng...